Lịch sử vàng mã và tục hóa vàng
Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Mạnh Linh (ĐH Xây dựng), tiền vàng mã, hay tiền âm phủ được sử dụng từ thời Nam Bắc triều (420-589SCN), khi tế lễ, mai táng cũng như tảo mộ.
Việc đốt vàng mã cũng có liên quan với Phật giáo, cùng với việc Phật giáo truyền vào Trung Hoa, qua phương pháp làm lễ hỏa tịnh, đàn hỏa thực (dùng lửa đốt đồ cúng) của tăng đoàn, việc chuyển sang đốt tiền giấy càng phổ biến. Quan niệm từ thời đó cho rằng, có thể dùng lửa để chuyển đồ cúng cho thần linh, hay chư Phật.
Tôn giáo tín ngưỡng và các quan niệm dần dần được thay đổi, tiền giấy ban đầu không dùng để đốt, mà chủ yếu chôn cùng, treo xung quanh, hoặc rải quanh mộ, nhưng khi đốt tạo ra khói, có cảm giác huyền hoặc hơn, nên rất nhanh sau đó đốt tiền vàng mã được sử dụng phổ biến, từ nghi lễ của vua quan, đến người dân thường. Tục đốt vàng mã đã trở thành một tín ngưỡng trong dân gian.
Thông thường sau thời gian 3 ngày Tết, hầu hết các gia đình Việt sẽ làm một mâm cơm rồi làm lễ hóa vàng và cho rằng đó là lễ tiễn gia tiên về trời hoặc cứ làm mà không hiểu lý do.
Sự thật là tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta và tục hóa vàng đầu năm bản chất liên quan đến văn hóa đón Tài thần và Hỷ thần nhưng ở Việt Nam không ai còn để ý. Vào ngày này thì các gia đình nên dán ảnh Thần tài trong nhà mình (thường dán ở vị trí tốt theo từng năm, như năm 2016 dán ảnh Tài thần ở Tây Nam, ảnh Hỷ thần ở phía Đông. Lưu ý không dán lên bàn thờ), rồi làm lễ và hóa vàng để đón thần Tài.
Thêm vào đó, nhiều người vẫn đang nhầm lẫn ngày Vía Thần tài là mùng 10 tháng Giêng, nhưng sự thực ngày này là 22/7, còn ngày mùng 2 tháng Giêng là ngày đón Tài thần và Hỷ thần từ thiên đình về với gia đình mình.
Lễ hóa vàng vào ngày nào là chuẩn nhất
Theo phong tục của một số nơi, nhiều gia đình thường làm lễ hóa vàng vào sáng hoặc chiều ngày mồng 3 Tết. Tuy nhiên theo GS sử học Lê Văn Lan, mùng 3 vẫn là ngày Tết thầy, nên để tổ tiên vẫn ở lại ăn Tết với con cháu. Mùng 4 và mùng 5 mới là ngày tiễn các cụ về cõi vĩnh hằng.
GS Lan cho biết, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới bên kia sống gần với dương gian. Tục này nhằm cung cấp cho người đã khuất tiền, quần áo (giấy), gậy đi đường (cây mía).
"Các cụ về trời chỉ cần ít quần áo, vật dụng đi đường cùng 5-10 nghìn đồng", ông Lan bày tỏ.
Còn theo một số chuyên gia văn hóa phương Đông, việc chọn ngày làm lễ hóa vàng tùy thuộc vào mỗi gia đình, chủ yếu từ mùng 3 đến khoảng mùng 10 Tết Nguyên đán.
Lễ vật cúng hóa vàng
Lễ vật giống như lễ cúng gia tiên: Mâm ngũ quả, hương, hoa tươi, giấy tiền vàng mã, đèn (nến), trầu cau, rượu, trà, bánh chưng (hoặc bánh tét). Cỗ mặn hoặc chay với đầy đủ các món ăn ngày Tết, được chế biến thơm ngon tinh khiết, bày biện đầy đặn, trang nghiêm. Trong đó, nếu cúng mặn không thể thiếu con gà trống.
Văn khấn lễ hóa vàng (lễ tạ năm mới) - Nam mô A-di-đà Phật (3 lần) - Con kính lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương - Con kính lạy Hoàng Thiên, Hậu Thổ, Long Mạch, Táo Quân, chư vị tôn thần - Con kính lạy Hoàng thiên Hậu thổ. Chư vị Tôn thần - Con kính lạy Ngài Đương niên hành khiển, ngài Bản cảnh Thành Hoàng, các ngài Thổ địa, Táo quân, Long mạch Tôn thần. - Con kính lạy các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, nội ngoại tiên linh. Hôm nay là ngày mùng 3 tháng giêng năm ………………… Chúng con là: ……………………………tuổi……………… Hiện cư ngụ tại ………………………………………………. Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cung bày trước án. Kính cẩn thưa trình: tiệc xuân đã mãn, Nguyên đán đã qua, nay xin thiêu hóa kim ngân, lễ tạ Tôn thần, rước tiễn âm linh trở về âm cảnh. Kính xin lưu phúc, lưu ân, phù hộ độ trì dương cơ âm trạch, mọi chỗ tốt lành, con cháu được bách sự như ý, vạn sự bình an, tài lộc song toàn, gia đạo hưng vượng. Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám. Nam mô A-di-đà Phật (3 lần) |
Bài viết chỉ mang tính tham khảo.
Đăng nhận xét