Được ghi nhận lần đầu tiên ở California vào năm 1962, số ca mắc enterovirus D68 dần gia tăng kể từ năm 2001. Theo các chuyên gia CDC, hầu hết các trường hợp mắc EV-D68 không gây ra triệu chứng hoặc chỉ nhẹ như đau nhức, ho, sổ mũi. mũi và hắt hơi. Một nửa số trường hợp cũng bị sốt. Tuy nhiên, trong một số ca hiếm hoi, virus được cho là ảnh hưởng đến tủy sống, dẫn đến suy yếu các cơ và đôi khi tê liệt, gây ra tình trạng "viêm tủy cấp tính".
CDC giải thích rằng Enterovirus D68 lây lan "khi một người bị nhiễm bệnh ho, hắt hơi hoặc chạm vào một bề mặt mà sau đó người khác chạm vào".
Họ nói thêm: "Nói chung, trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên có nhiều khả năng bị nhiễm enterovirus. Đó là bởi vì họ chưa có khả năng miễn dịch từ những lần tiếp xúc trước đó với virus này. Người lớn có thể bị nhiễm enterovirus, nhưng nhiều khả năng họ không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ".
CDC đã khuyến cáo các bác sĩ ở Mỹ xem xét EV-D68 là một nguyên nhân có thể xảy ra khi trẻ em có biểu hiện bệnh hô hấp cấp tính nghiêm trọng, kèm theo hoặc không kèm theo sốt.
Người dân cũng được khuyến khích thực hiện các biện pháp phòng ngừa cơ bản để bảo vệ chống lại EV-D68 và các virus đường hô hấp khác. Các biện pháp này bao gồm rửa tay thường xuyên, che những cơn ho và hắt hơi bằng khăn giấy, tránh tiếp xúc gần với người bệnh và ở nhà khi cảm thấy không khỏe.
Hiện tại không có vaccine nào có sẵn để bảo vệ khỏi EV-D68 - tuy nhiên, việc tiêm vaccine Covid-19 và tiêm phòng cúm có thể giúp ngăn chặn các biến chứng bệnh do virus gây ra.
Các chuyên gia cho biết thêm, trẻ em có các triệu chứng nghiêm trọng như thở gấp và khó thở cần được đưa đi chăm sóc y tế càng sớm càng tốt.
CDC cũng cảnh báo rằng trẻ em bị hen suyễn có nhiều nguy cơ phát triển bệnh nặng hơn khi nhiễm enterovirus D68.
Theo dõi sự lây lan của EV-D68 là một thách thức vì phần lớn các bệnh viện và văn phòng bác sĩ ở Mỹ gặp khó khăn trong việc thực hiện các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán một loại enterovirus cụ thể.
Đăng nhận xét